Vi Phong là một nghệ sĩ hoạt động ở nhiều lĩnh vực, từ sáng tác âm nhạc, làm thơ, đến nghiên cứu, sưu tầm văn hóa dân gian… Riêng hoạt động bảo tồn dân ca ví, giặm Nghệ Tĩnh giai đoạn 1975 - 2000, ông có nhiều đóng góp rất đáng ghi nhận. Với tư cách nhà quản lý văn hóa, ông tích cực thực hiện chủ trương bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa, tổ chức sưu tầm, nghiên cứu, góp phần làm cho dân ca ví, giặm tiếp tục được gìn giữ và trao truyền trong thời kỳ đương đại.
Dân ca Nghệ Tĩnh mà tiêu biểu là dân ca ví, giặm (DCVG) có những giá trị bền vững, qua thử thách của thời gian, các đặc trưng và giá trị của dân ca Nghệ Tĩnh vẫn được gìn giữ, trao truyền cho các thế hệ bằng nhiều cách khác nhau. Cho đến nay dân ca vẫn đang hiện hữu, được yêu mến và đồng hành với cuộc sống, con người và mảnh đất đã sinh ra nó, nó vẫn song tồn, sống chung với các loại hình nghệ thuật hiện đại khác trong một thế giới có nhiều biến đổi.
Quả thật, DCVG trong thời kỳ đương đại đã có vị thế khác: từ chỗ chỉ gắn với lao động cấy cày, chèo thuyền, dệt vải nơi đồng ruộng làng quê, bến sông con đò, bây giờ dân ca là một hình thức sinh hoạt văn nghệ, đã lên sân khấu, đến các điểm du lịch, hội hè, các giảng đường, sóng phát thanh truyền hình. Dân ca cũng đã hoạt động vượt ra khỏi vùng quê Nghệ An - Hà Tĩnh, vươn đến tầm cả nước và đến cả bạn bè năm châu, được vinh danh là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại.
Những người dân quê tạo ra dân ca cũng chính là những người có công thầm lặng giữ cho mạch nguồn dân ca như giữ ngọn lửa trong nhà mình không tắt. Công lao ấy còn thuộc về quan điểm, tầm nhìn và sự tâm huyết, đầy trách nhiệm của các thế hệ những người làm công tác quản lý, chuyên gia, nghệ sĩ, là những chiến sĩ trên mặt trận văn hóa của hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh, họ đã kiên trì, bền bỉ gìn giữ và trao truyền DCVG trong suốt mấy chục năm qua. Trong số những người góp công lớn đưa DCVG có vị thế như ngày nay, phải kể đến nhạc sĩ Vi Phong, người đã có gần 40 năm tâm huyết gắn bó sâu nặng với âm nhạc địa phương, trong đó có DCVG. Từ những năm tháng tuổi trẻ đến những ngày cuối đời, ông luôn nặng lòng với câu hát lời ca mộc mạc, đằm thắm của quê hương, xứng đáng được ghi nhận và vinh danh.
Vi Phong tên thật là Lê Đức Quyền (1940 - 2003) sinh ra ở Hương Sơn, Hà Tĩnh - mảnh đất sơn thủy hữu tình và có truyền thống hát dân ca. Là nghệ sĩ trưởng thành từ phong trào văn nghệ quần chúng, ông tham gia sinh hoạt văn nghệ ở nơi công tác khi đang là giáo viên Nông trường Tây Hiếu Nghệ An và cán bộ Xí nghiệp sứ Hà Tĩnh. Chính làm việc ở những nơi sản xuất và gần gũi người lao động đã hình thành ở người nghệ sĩ lòng yêu mến, gắn bó DCVG, sáng tác nhiều ca khúc mang âm hưởng giai điệu quê hương.
Vi Phong là thế hệ làm quản lý nghệ thuật khá sớm và đảm nhiệm nhiều chức vụ gắn liền với các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp như: trưởng đoàn Văn công Hà Tĩnh, phó trưởng đoàn Dân ca Nghệ Tĩnh, trưởng đoàn Ca kịch Hồng Lĩnh, Hà Tĩnh, trưởng phòng Quản lý Nghệ thuật Sở VHTT Hà Tĩnh. Quá trình này cũng đã giúp cho người nghệ sĩ được trải nghiệm nhiều hơn với việc sáng tác âm nhạc, khẳng định bước trưởng thành mới trong phong cách nhạc Vi Phong, hướng tới âm nhạc chuyên nghiệp. Với cương vị là người quản lý, ông có điều kiện tổ chức, thực hiện việc đưa văn nghệ hoạt động bài bản chuyên nghiệp, tổ chức nghiên cứu bảo tồn các giá trị văn hóa bản địa. Ông nằm trong số không nhiều nghệ sĩ là hội viên của nhiều hội nghệ thuật hàng đầu Việt Nam.
Nói đến Vi Phong, người ta ấn tượng về một người nghệ sĩ hoạt động văn hóa nghệ thuật nhiệt thành, hăng say, đầy trách nhiệm, đa tài, đa năng ở nhiều lĩnh vực, lĩnh vực nào ông cũng có đóng góp nổi bật. Đầu tiên, có thể khẳng định, Vi Phong là một trong những người góp công lớn ở lĩnh vực hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị DCVG Nghệ Tĩnh giai đoạn 1975 - 2000. Với tư cách là nhà nghiên cứu, một chuyên gia trong lĩnh vực dân ca, ông và những người cùng thời đã dày công, tâm huyết lăn lộn với thực tế, sưu tầm các bài hát cổ, tìm hiểu thực tế cuộc sống tiếng hát át tiếng bom trong những năm tháng chiến tranh đang diễn ra ác liệt trên vùng đất Nghệ Tĩnh. Trong kho tư liệu quý giá ông để lại, có hàng trăm bài ca dao, dân ca, băng đĩa, bản nhạc chép tay hay in ấn ở dạng thô còn dang dở, chưa được phân loại sắp xếp hệ thống, hiện do gia đình lưu giữ.
Trong hoạt động nghiên cứu, mảng ông tâm đắc, đóng góp nhiều nhất là âm nhạc dân gian xứ Nghệ. Một trong số kết quả sưu tầm, ghi chép của ông đã được chọn lọc, tập hợp xuất bản thành các tập sách có giá trị tư liệu và nghiên cứu lâu dài cho thế hệ sau. Các tác phẩm chính: Nghiên cứu âm nhạc dân gian xứ Nghệ: ca trù Cổ Đạm, Ví phường vải Trường Lưu, Nghiên cứu Dân ca Nghệ Tĩnh, sưu tầm ghi âm DCVG Nghệ Tĩnh: Dân ca Nghệ Tĩnh. Trong đó, đáng chú ý nhất của ông là cuốn Dân ca Nghệ Tĩnh. Sách gồm 2 phần, phần I gồm các làn điệu gốc; phần II gồm các làn điệu cải biên.
Về lĩnh vực nghiên cứu bảo tồn bản sắc và phát huy các giá trị của DCVG, ông đã tham gia tổ chức nghiên cứu, chủ trì nhiều hội thảo bàn về công tác bảo tồn, sân khấu hóa kịch hát dân ca. Mong muốn đưa dân ca vào thực tiễn và trong chuyên môn nghề nghiệp lĩnh vực nghệ thuật, ông có những ý kiến đánh giá minh định các giá trị của DCVG: “Các làn điệu dân ca Nghệ Tĩnh có tính chất trữ tĩnh, thiết tha, sâu lắng, mênh mông, nhớ thương, nhắn nhủ, đau xót, kể lể, dí dỏm, khêu gợi, thúc giục, là những ưu thế để thể hiện tâm lý, tính cách của nhân vật trên sân khấu. Song dân ca Nghệ Tĩnh cũng có những hạn chế, khó thể hiện những tình huống bạo liệt, gay cấn, uất hận, căm tức, day dứt, da diết, dọa nạt, ngờ vực, lừa lọc, ghen tuông, đểu cáng, đĩ thõa, vui nhộn, rạo rực, quyết liệt là những tình huống mà sân khấu đòi hỏi”.
Tác giả cũng chú ý viết chân dung nghệ nhân DCVG với lòng trân trọng tài năng và đóng góp của nghệ nhân đối với văn hóa địa phương, đặc biệt là nghệ nhân Đức Duy: “Nghệ nhân, NSƯT Đức Duy không chỉ có giọng hát vàng, dù rằng chỉ thế cũng đáng quý lắm rồi. Ông còn tự soạn những tiết mục, những tổ khúc dân ca để biểu diễn. Ông có tài chắp nối những câu hò, câu ví giặm cổ thành bài gọn gàng cho một tiết mục, khi cần thiết ông cũng có thể lấy nơi này nơi kia, bài này bài kia một vài câu xào xáo thêm thắt cho hợp cảnh hợp tình, theo lối sáng tác rất là dân gian mà ông thường gọi quấy quá rằng gặp chi hát nấy, tiện mô bắt xắp nấy, miễn là trơn tru, trơn bọt lọt lạch. Nhờ giọng hát tuyệt vời người nghe thấy hay, không ai nỡ bắt bẻ ông”.
Ở phương diện âm nhạc, trong di sản để lại, theo tư liệu gia đình cung cấp, riêng về tác phẩm âm nhạc do ông sáng tác, con số ấy đã hơn 200 ca khúc với nhiều âm hưởng và phong cách: âm nhạc dân ca Nghệ Tĩnh, nhạc trẻ âm hưởng dân ca, kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh… Quả là đáng khâm phục. Nhiều ca khúc nổi tiếng, đi cùng năm tháng, tiêu biểu là: Nhìn hoa nhớ Người, Nơi mùa xuân tươi xanh, Về quê Hà Tĩnh, Quê mình, Nhớ Hương Sơn, Ngàn Phố sông ơi, Tình quê, Đêm Tam Soa, Vũ Quang - mùa xuân về, Lưu luyến Lam Kiều, Câu phường vải nên duyên, Cung đàn Tố Như, Bến cảng ước mơ, Tình người thợ mỏ, Yêu lắm quê mình thị xã Thành Sen…
Nói về sự nghiệp của ông, nhạc sĩ Ngọc Thịnh viết: “Đã từng là sinh viên Nhạc viện Hà Nội, lại là người trải nghiệm trường đời nên có một vốn kiến thức thật uyên thâm, hiểu biết nhiều thể loại học thuật, chịu khó tìm tòi, sưu tầm, viết nhiều sách nghiên cứu, chuyển thể nhiều kịch bản văn học cho nhiều vở diễn dân ca Nghệ Tĩnh, nhưng với ông niềm đam mê lớn nhất là âm nhạc. Trái tim ông nhiều vui buồn, hờn giận, đau thương, tất cả cũng để dành cho âm nhạc. Ông đã viết một số tác phẩm khí nhạc, nhạc múa, âm nhạc cho các vở kịch hát, đặc biệt là một số lượng ca khúc rất lớn, nhiều ca khúc đã đạt các giải thường tầm cỡ quốc gia. Nhắc đến ông người ta nhớ đến Hương cau vườn Bác, Lời ru trong đêm, Cảm xúc đèo Ngang… Ông là người con nặng tình, nặng nghĩa với quê hương nên âm nhạc trong các tác phẩm luôn lấy nguồn cảm hứng từ âm hưởng dân ca xứ Nghệ, từ các điệu hò, vè, ví, giặm và lời ca cũng bình dị mà sâu lắng tình người. Một tấm gương biết vươn lên lao động không mệt mỏi đã cống hiến cho âm nhạc, văn học nghệ thuật, góp phần gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Trái tim đa cảm giàu sức sáng tạo không một phút giây nghỉ ngơi, luôn cuốn hút, thúc giục ông đi khắp mọi nẻo đường quê để tìm hiểu, để viết và mỗi tác phẩm nghệ thuật, cũng là những trang đời của chính mình”.
Ngoài các đóng góp về nghiên cứu và sáng tác âm nhạc, Vi Phong còn là một trong những người tâm huyết, trăn trở với việc đưa DCVG lên sân khấu kịch hát, nhằm sân khấu hóa DCVG như một kịch chủng trong hệ thống các loại kịch hát dân ca Việt Nam. Trong quá trình hơn 30 năm thể nghiệm này (từ những năm 70 đến sau năm 2000), kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh đã có nhiều thành công, được xã hội đón nhận và đánh giá cao. Nhạc sỹ Vi Phong cũng là người có nhiều trăn trở, dành nhiều tâm sức ở lĩnh vực sân khấu kịch hát dân ca Nghệ Tĩnh, đã chuyển thể và sáng tác âm nhạc hơn 20 vở kịch, trong đó có các vở công diễn đã đạt các giải thưởng cao như: Mai Thúc Loan, Ông vua hóa hổ, Lời thề thứ 9, Linh hồn của đá... Vi Phong cũng đã sáng tác nhiều tác phẩm âm nhạc dân ca chuyển thể từ làn điệu hò, ví giặm lời cổ, viết nhạc trẻ âm hưởng dân ca sâu lắng trữ tình và với cương vị là người quản lý các đoàn nghệ thuật chuyên nghiệp của tỉnh, ông cũng là người tích cực thực hiện chủ trương đưa văn nghệ hoạt động bài bản chuyên nghiệp, chú trọng việc đưa DCVG vào sáng tác gắn với biểu diễn quảng bá.
Sự cống hiến và thành tựu nghệ thuật của nghệ sỹ Vi Phong được ghi nhận qua các giải thưởng nghề nghiệp cao quý ở địa phương và trung ương: Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Du lần 1 năm 1985 (tác phẩm Hương cau vườn Bác); Giải thưởng Hội Nhạc sĩ Việt Nam (1985, tập ca khúc Vi Phong); Giải thưởng Văn học Nghệ thuật Nguyễn Du lần 3 năm 1995 (tác phẩm Bên núi Thiên Cầm); Giải thưởng Liên hiệp các hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1996 (tác phẩm Cảm xúc Đèo Ngang).
DCVG Nghệ Tĩnh làm thành bản sắc văn hóa xứ Nghệ, trở thành di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. DCVG có được vị thế ấy, công lao to lớn thuộc về các thế hệ người dân, những nghệ nhân và rất nhiều chuyên gia, nghệ sĩ đã thầm lặng, kiên trì, bền bỉ và tâm huyết giữ cho mạch nguồn dân ca sống mãi, đồng hành cùng quê hương xứ sở. Quả thật, nhiều chuyên gia, nghệ sĩ, nghệ nhân đã sống đam mê, gắn bó chung thủy với câu hò điệu ví quê hương, dân ca đã làm nên danh phận của họ nhưng chính họ cũng là những người có công làm cho hồn cốt của dân ca lưu truyền, nâng cao vị thế của chính nó và của nhân dân hai tỉnh Nghệ An - Hà Tĩnh... Nhạc sĩ Vi Phong là một trong số những người như vậy.
Có thể nói, Vi Phong là một trong những người đã góp phần đưa DCVG tiếp tục sống và phát huy vai trò của nó vào trong cuộc sống đương đại, tránh nguy cơ bị mai một do hoàn cảnh chiến tranh những năm 70 hay thời kỳ khó khăn về kinh tế phải lo cái ăn cái mặc hàng ngày của những năm 80 của TK XX. Người nghệ sĩ ấy đã góp phần trong việc phát huy các giá trị DCVG Nghệ Tĩnh trong tình hình mới, đưa ví, giặm gần gũi với sinh hoạt văn nghệ của đời sống mới, giữ lửa cho ví, giặm thấm đượm và lan tỏa.
Nguồn : Tạp chí VHNT số 401, tháng 11 - 2017
Tác giả : PHẠM MAI CHIÊN